Thuốc tác dụng tại chỗ dùng trong nhãn khoa
Hiện nay có nhiều dạng bào chế với thành phần dược chất đa dạng để điều trị các bệnh về mắt bằng nhiều đường dùng khác nhau, trong đó dạng thuốc tác dụng tại chỗ được sử dụng phổ biến hơn cả
Sở dĩ được ưa chuộng như vậy là vì đường dùng này rất thuận tiện, dễ sử dụng, người bệnh có thể tự dùng theo chỉ định của thầy thuốc. Hơn nữa, dược chất tập trung chủ yếu ở mắt và chỉ có một phần nhỏ dược chất được hấp thu vào tuần hoàn máu, hạn chế được nhiều tác dụng phụ của thuốc.
Table of Contents
1. Thuốc tác dụng tại chỗ dùng trong nhãn khoa gồm các dạng bào chế sau
1.1. Thuốc nhỏ mắt
Là những chế phẩm lỏng, có thể là dung dịch hay hỗn dịch vô khuẩn có chứa một hay nhiều dược chất được nhỏ vào túi kết mạc với mục đích chẩn đoán hay điều trị các bệnh về mắt. Một dạng dùng nữa của thuốc nhỏ mắt là dạng bột vô khuẩn và được pha với một chất lỏng vô khuẩn thích hợp ngay trước khi dùng. Thuốc nhỏ mắt là dạng bào chế phổ biến nhất, chiếm trên 70% các chế phẩm thuốc dùng cho mắt.
1.2. Thuốc mỡ tra mắt
Là dạng thuốc bán rắn vô khuẩn, thường được điều chế với hỗn hợp tá dược vaselin trắng, lanolin và dầu khoáng. Dược chất trong thuốc mỡ tra mắt có thể tan trong hỗn hợp tá dược ( thuốc mỡ kiểu dung dịch).
So với thuốc nhỏ mắt, sinh khả dụng của dược chất từ dạng mở tra mắt thường vượt trội do: thời gian tiếp xúc của thuốc với niêm mạc mắt kéo dài, ít bị pha loãng bởi nước mắt, không bị loại trừ theo ống mũi lệ, thuốc được giải phóng từ từ do tác động của mỗi lần chớp mắt. Tuy nhiên, dạng mỡ tra mắt có nhược điểm làm mờ mắt tạm thời mỗi khi tra thuốc nên thường phải dùng vào buổi trưa, tối.
1.3. Kính tiếp xúc (Contact lens)
Là loại không chứa dược chất dùng để hiệu chỉnh thị lực cho mắt. Cũng có loại kính tiếp xúc chứa dược chất dùng để điều các bệnh về mắt. Để sử dụng kính tiếp xúc có hiệu quả và an toàn cần có các dung dịch rửa kính phù hợp.
1.4. Hệ điều trị ở mắt (Ocusent)
Có dạng hình đĩa mỏng, nhỏ đặt trong túi củng kết mạc. Đây là một dạng bào chế nhằm duy trì sự giải phóng dược chất đều đặn ở mức nồng độ có tác dụng điều trị, giúp giảm số lần dùng thuốc.
1.5. Hệ điều trị có cấu tạo vi tiểu phân
Sử dụng các polymer thích hợp nhằm chuyển dược chất thành các cấu trúc nanocapsule bằng kỹ thuật thích hợp, rồi phân tán vào chất dẫn như dạng hỗn dịch nhỏ mắt. Dược chất từ nanocapsule được giải phóng đều đặn và kéo dài sự hấp thu. Dạng bào chế này đang được nghiên cứu để phát triển rộng rãi hơn.
Thuốc tác dụng tại chỗ dùng trong nhãn khoa được chia thành những nhóm chính sau dựa trên tính chất và tác dụng của dược chất:
Dùng trong chẩn đoán: dicain 1%, fluorescein 0,5%, atropin 0,5-4%,…
– Nhóm thuốc sát khuẩn: argyrol 2-10%, thimerosal 0,03%, betadin 5%,…
– Nhóm sulfamid: sulfaxylum 15%, sulfamethoxypyridazine 10% (SMP),…
– Nhóm thuốc kháng sinh: cloroxit 0,4%, mỡ tetracyclin 1%, gentamycin 0,3%, tobramycin 0,3% (tobrex), ofloxacin (oflovid), clprofloxacin (ciplox),…
– Nhóm thuốc chống viêm steroid: fluorometholone 0,02-1%, mỡ hydrocortison 1%,…
– Nhóm thuốc kháng sinh phối hợp sulfamid hoặc chống viêm steroid: neomycin cùng polymycin phối hợp dexamethason (maxitrol), tobramycin phối hợp dexamathason (tobradex),..
– Nhóm thuốc chống viêm không steroid: diclofenac (naclof), indomethacin (indocollyre),….
– Nhóm thuốc kháng nấm và herpes: natamycin (natacyn), ketoconazole (phytoral, tatoral), acyclovir (mỡ mắt zovirax),…
– Nhóm thuốc chống dị ứng: lodoxamide (alomide), alopatadine (patanol), pemirolast (alergysal), naphazolin và pheniramin (opcon- A),…
– Nhóm thuốc điều trị bệnh glaucoma: pilocarpin 0,5-5%, betaxolol 0,25-0,5% (betoptic- S), timolol 0,25-0,5%,…
– Nhóm thuốc làm chậm quá trình đục thủy tinh thể: pirenoxine (kari- uni), pyrisoxin (catarstat), inosine (catacol),…
– Nhóm nước mắt nhân tạo, dinh dưỡng giác mạc và chống mỏi mắt do điều tiết: polyvidone phối hợp với acid boric, muối clorid, muối lactate (oculotect), propylene glycol (Moisture eyes), dầu vitamin A, vitamin C phối hợp vitamin B2 (CB2), sodium hyaluronate (sanlein),…
1.6. Cẩn thận với một số thuốc thông dụng
Trong một số các loại thuốc tác dụng tại chỗ dùng cho mắt, đáng lưu ý nhất và cũng được sử dụng thông dụng nhất là 2 loại: kháng sinh và corticosteroid.
Thuốc có kháng sinh
Thuốc kháng sinh dùng cho mắt thường bị người sử dụng coi thường, ví dụ chlorocid 0,4%. Trong khi tôm, thịt, cá nhiễm vi lượng kháng sinh chloramphenicol ở nồng độ nano (1/1 tỷ của 1 gram) đã bị loại bỏ, thì 1 ml chlorocid 0,4% có đến 4000 nanogram chloramphenicol!
Thiếu máu bất sản là biến chứng nguy hiểm nhất do dùng chlorocid nhỏ mắt. Mặc dù chlorocid ít hấp thu vào máu nhưng những bệnh nhân có tiền sử bản thân hay gia đình suy tủy thì không nên dùng. Hoặc với thuốc nhóm quinolon như ciprofloxacin thường gây ra kết tủa tinh thể, cảm giác dị tật ở mắt, sung huyết, sưng mi mắt, chảy nước mắt, sợ ánh sáng…
Lưu ý các kháng sinh dùng đồng thời có thể gây kháng chéo, dị ứng chéo như chloramphenicol không dùng đồng thời với gentamycin, tetracyclin, sulfadiazin,…
Thuốc có corticosteroid
Trên thị trường có rất nhiều thuốc nhỏ – tra mắt chứa corticosteroid, thường thấy là các loại thuốc sản xuất trong nước được sử dụng rất rộng rãi và có thể thấy ở mọi nơi, đặc biệt các vùng nông thôn như: polymycin phối hợp dexamethason (polydexa), chloramphenicol phối hợp hydrocortison ( chloroacid-H), mỡ hydrocortison,…
Đặc điểm chung là giá rẻ, dễ tìm, dễ mua nên người dân hay tự ý mua thuốc về tự sử dụng mà không hỏi ý kiến thầy thuốc. Tuy nhiên, các thuốc này có thể gây ra nhiều tác dụng phụ nguy hiểm cho mắt như tăng nhãn áp (glaucom hay còn gọi là thiên đầu thống), đục thủy tinh thể, viêm giác mạc nông, loét giác mạc, bội nhiễm, nhiễm nấm mắt, chậm lành vết thương,…
Các học sinh hay sử dụng máy vi tính cần lưu ý là dùng thuốc sẽ có cảm giác dễ chịu, mắt cảm giác sáng ra. Nhưng cứ dùng kéo dài như vậy đến một lúc nào đó nhìn mờ dần, cơ mắt teo đi, khi đi khám thì đã muộn.
2. Cách sử dụng thuốc nhỏ mắt, thuốc tra mắt
Làm thế nào để nhỏ, tra khiến thuốc lọt được vào khe mắt đủ mức mà không bị vương vãi ra ngoài và phát huy được hiệu quả tối đa?
2.1. Cách nhỏ thuốc nước
– Để lọ nhỏ thuốc cách lông mi 3-4cm
– Nhỏ 1-3 giọt thuốc nước vào góc trong của mắt.
– Kéo mi dưới xuống cho thuốc phân bố đều khắp mắt
– Lau các giọt thuốc thừa chảy ra cạnh sống mũi và hai mi
– Tránh để đầu lọ thuốc nhỏ mắt vào lông mi vì gây nhiễm bẩn cho lọ thuốc
Nếu phải nhỏ 2-3 loại thuốc khác nhau, cần tránh nhỏ chúng cùng một lúc vì chúng sẽ pha loãng nhau ra và rất dễ lãng phí thuốc. Tốt nhất mỗi thuốc cách nhau 20-30 phút, đây là khoảng thời gian đủ để thuốc trước đã ngấm vào mắt. Thuốc nước thường nhỏ 3-4 lần hoặc 6-8 lần trong ngày, tùy thuộc vào mức độ nặng nhẹ của bệnh.
2.2. Cách tra thuốc mỡ
– Mở khe mắt của bệnh nhân bằng cách: dùng ngón trỏ để mở mi trên, ngón cái kéo mi dưới cho lộ kết mạc ra
– Tay phải bóp một thỏi thuốc mỡ chừng 2cm
– Giữ mi trên không cho chớp vội vì nếu buông mi trên ra trước, thuốc mỡ sẽ dính vào mi trên gây lãng phí, đồng thời thuốc mỡ không ngấm được vào trong mắt.
Thuốc mỡ tra mắt tốt nhất là tra vào buổi trưa và tối trước khi đi ngủ.